Our forum runs best with JavaScript enabled !

Sự thô lậu của “chữ nghĩa cộng sản” so với văn hóa bóng bẩy của miền N

View previous topic View next topic Go down

LOL Sự thô lậu của “chữ nghĩa cộng sản” so với văn hóa bóng bẩy của miền N

Post by LDN Sun May 01, 2022 1:38 pm

Sự thô lậu của “chữ nghĩa cộng sản” so với văn hóa bóng bẩy của miền Nam xưa 


Nguyễn Anh Khiêm - Sài Gòn nhỏ
15 tháng 1, 2022


Mục mới “Ngôn Ngữ Của Đảng CS Việt Nam” được tập hợp thành từ điển trên trang VietStudies của giáo sư Trần Hữu Dũng chắc được độc giả theo dõi với nhiều thích thú. Từ ngữ ở đó đương nhiên là cũ, tức vẫn thuộc vốn từ của dân tộc Việt nhưng rõ ràng ngữ nghĩa thì khác nhiều với nghĩa truyền thống chúng vốn có. Đặc biệt chúng được liên tục dùng theo “thời vụ”, đầy tính công thức nên mau chóng trở thành sáo ngữ và chẳng mấy chốc ngầm chứa hài hước, không nhiều thì ít, đối với người không hứng thú mấy với chế độ Bắc kỳ toàn trị.


1/


Chẳng hạn từ “bọn xấu” nay không còn nghĩa bọn ác độc chuyên giết người cướp của, tham lam lừa gạt… mà có nghĩa phổ biến chỉ “bọn” hay phê bình hoặc bày tỏ ý kiến bất lợi cho chính sách cai trị của Đảng. Trị dân càng độc đoán thì càng phải vận dụng chữ nghĩa, chữ mang nghĩa mới càng phát triển vì nhu cầu biện minh, giải thích lòng vòng. Tỉ như xưa nay vẫn nói quốc kỳ hoặc cờ nước, nếu muốn nói thuần Nôm, nay thì phải là “cờ tổ quốc”, tức cờ đó đã có từ thời ông cố ông tổ xa lắc xa lơ. Mọi người đều biết sự thật không phải vậy nhưng vẫn… OK nói như vậy vì truyền thông, báo chí dạy nói vậy, tự nhiên như người Hà Nội!


Người ta không thể đặt thêm từ nên đành dùng từ cũ để cấu tạo nhóm từ tạo nghĩa khác, nghĩa đôi khi chung chung, khá mơ hồ. Chẳng hạn “diễn biến hòa bình”, theo nghĩa thông thường phải là tốt nhưng ở đây phải hiểu có nghĩa vô cùng xấu xa chứa đầy âm mưu đen tối, chống Đảng, tức là chống “tổ quốc”! Rõ ràng chưa có thời nào từ tiếng Việt lại biến nghĩa rầm rộ tràn ngập như ngày nay.


Mà không chỉ từ và ngữ, những thay đổi về cách diễn đạt tức các kiểu câu mới đáng chú ý. Xem một trận đá banh trên TV, tôi chỉ biết thở dài thườn thượt kiểu nói của mấy tay bình luận. Trăm lần nói chỉ một kiểu câu: Cú đá vừa rồi là của… Cản phá vừa rồi là của… Cuộc thoát xuống là của… Phạm lỗi là của… Người bị phạm lỗi là… (Lúc nào cũng chăm bẳm danh từ hóa động từ, tất chỉ còn cách dùng LÀ làm trung gian câu và chỉ độc một kiểu câu này suốt buổi, tại sao “kiên định” quá vậy?).


Thay vì nói “rất cần thay đổi chiến thuật” hay “chiến thuật cần thay đổi” thì lại nói, rất mệt, “những sự thay đổi chiến thuật là rất cần”. Thay vì nói “thủ thành lao ra bắt dính banh” thì lại nói rất chữ nghĩa “thủ môn có cuộc lao ra để có cuộc xử lý bóng chính xác”. Chỉ cần nói “phải chi anh đá nhanh hơn may ra thắng bàn” thì nói “anh không thể có được cú đá nhanh hơn để xử lý tốt tình huống”. Thay vì nói “đội chủ nhà không thể phản công” thì bảo “không có giải pháp phản công cho đội chủ nhà”.


Câu này nữa, mới khổ: “Đội X với tình trạng hiện nay là rất là khó khăn”. Sao không nói “đội X đang gặp khó khăn lớn”, từ chỉ hơn phân nửa, câu dễ nói, ý rõ hơn. Thay đổi cách nói thì cũng được nhưng sao thay đổi một trăm kiểu câu phong phú của Việt ngữ bằng mỗi kiểu từ LÀ làm trung gian? Mà đâu phải một anh nói, anh nào cũng nói một kiểu như thế, lúc đầu là cái nôi “văn hóa” VTV, nay thì mọi TV, HTV còn bắt chước kỹ hơn. Thường vẫn vậy, học trò luôn thực hành nghiêm hơn thầy!


2/


Xin hỏi quí ông bà anh chị một lần, nói thế thì được cái dài hơn, chữ Hán cầu kỳ hơn, nghĩa tối hơn, còn hay hơn là hay chỗ nào xin “chỉ đạo” một lần cho kẻ kém cỏi như tôi được “quán triệt”! Nghe mãi kiểu tường thuật dài dòng, cầu kỳ và lạt nhách như vậy tự nhiên nhớ tới se lòng chuyên gia tường thuật túc cầu Huyền Vũ của Đài phát thanh Sài Gòn thuở trước. Ông này không biết học ở đâu hay thiên tài tự phát mà làm mê mẩn hàng triệu con tim tín đồ túc cầu giáo của miền Nam một thời đá banh hân hoan vui vẻ. Không cần đến sân Cộng Hòa xa xôi tốn tiền, nằm nhà ôm cái radio transistor cũng đủ “thấy” quả da lăn tưng bừng trên sân cỏ. Thậm chí thiên hạ mê ông tới nỗi đến sân trực diện trái banh rồi vẫn phải mang theo radio để được nghe ông nói. Thỉnh thoảng ông nhắc oang oang trên máy:


– Xin quí vị ngồi gần chỗ chúng tôi vặn radio nhỏ lại hầu đỡ trở ngại cho chúng tôi trong việc tường thuật, xin đa tạ.


Nói tường thuật nhưng thật ra ông miêu tả cụ thể, lời tường thuật phong phú, diễn tả sự việc hết sức sống động, hoạt cảnh như hiện ra trước mắt, đôi khi đưa ra những nhận xét riêng độc đáo với ngôn ngữ văn vẻ rất thú vị. Chẳng hạn:


Anh dùng mũi giày hãm đà banh, lắt léo thần tình thoát ra sự truy cản của hai chiếc áo đỏ, đem banh xuống, xuống nữa… Anh trả ngược lại sát mép cột dọc lọt qua cả rừng chân… Thưa quí vị, Ngôn chân trái vừa dứt tung lưới đội Quan Thuế, đóng thêm cái đinh trên thảm bại của đội này. Bóng chiều đã ngã dài trên sân cỏ Cộng Hòa, trận cầu chỉ còn năm phút phù du, khán giả quanh chúng tôi đã lục tục ra về…


Tôi ghi lại theo ký ức hao mòn, không đủ tài diễn được sự hào hứng không cùng khi nghe Huyền Vũ tường thuật đá banh. Tôi tin những cái tape tài liệu đó vẫn còn lưu ở Đài phát thanh Sài Gòn, ước gì các biên tập viên thể thao của “bên thắng cuộc” chịu khó nghe, may ra họ nghĩ lại cách nói của mình sao cho đỡ phần nào hư hao Việt ngữ. Nhớ hồi Thanh Tâm Tuyền còn sống, ảnh cứ cười kiểu nói “trời có khả năng mưa”. Anh không ngờ ngày nay người ta không còn nói… giản dị (!) vậy nữa mà phát triển thành “Khả năng trời mưa là rất lớn”. Câu nào cũng phải LÀ, hình như không “là”… là sai “pháp lệnh”.


Từ thuở hình thành đất nước, tổ tiên ta vẫn dạy tiếng Việt không bao giờ cần đặt LÀ trước tính từ làm vị ngữ câu. Đóa hoa rất đẹp, bài hát quá hay, anh chị tử tế lắm… chứ chẳng ai nói cái hoa rất là đẹp, bài hát rất là hay, anh chị rất là tốt… Nó thừa và dở tệ. Nay thì văn nói và viết như nhau, không trực tiếp dùng động từ, tính từ nữa mà gần như tuyệt đối nói, viết theo cách: Biến động từ và tính từ thành danh từ, đặt lên đầu câu làm chủ ngữ, thế rồi phải có LÀ tiếp theo… Tỉ như khả năng thất bại của công ty là rất lớn; khả năng được hỗ trợ của đơn vị là rất nhỏ; khả năng giải thể công ty là rất lớn; khó khăn của làng nghề là rất nghiêm trọng… Sao không nói dễ nghe hơn: Công ty rất có thể thất bại; đơn vị khó tìm được nguồn tài trợ; công ty có nguy cơ bị giải tán; tình cảnh làng nghề quả thật khó khăn…


3/


Ngôn ngữ nào cũng vậy, tệ nhất cũng phải đủ lời đủ ý rồi làm sao ít lời đủ ý, cuối cùng ít lời nhiều ý là các văn bản nghệ thuật, thơ chẳng hạn. Hồi nhỏ có lần tôi nghe ông bác họ tuy ít học nói với một anh chàng người làng có tật ba hoa: “Mi nói cả buổi mà tau cô lại không được chén nhỏ”. Bác mà còn sống chắc ông không khỏi ngạc nhiên nghe nhiều vị tiến sĩ, nhiều ông quan lớn phát biểu chỉ đạo trên TV hoặc qua phỏng vấn các thứ khiến thính giả phát bịnh: dài, dai, tránh trớ, câu hỏi và câu trả lời không ăn nhậu gì tới nhau và có vẻ chính họ đôi khi chắc cũng không biết mình muốn nói gì. Sao lại có một thời thổ tả lạ lùng, cùng những loại tiến sĩ dỏm và giả ngập tràn trên đất nước khốn cùng về văn hóa quá mức chịu đựng như vậy.


Vào được Facebook, thấy thiên hạ đôi lần nhận xét về âm nhạc, ca khúc Việt Nam, tôi cũng muốn xía vào đôi chút lãnh vực mình không đủ thẩm quyền, nhưng thây kệ, chẳng hạn mình đâu có làm thơ hoặc có làm thơ… dở nhưng vẫn chõ miệng nói chuyện thơ, có hề gì đâu!


Nói chuyện ca hát thế này chắc làm mất lòng nhiều người, không những rất dễ bị chửi mà còn bị phun nước bọt vào mặt (kẻ ngoại đạo dám hỗn hào chạm vào các đấng làm nghệ thuật nhạc ca cao quí). Có điều cũng liều, mình phải đâu kẻ nổi tiếng nổi tăm gì, viết cho bạn bè đọc chơi, nói thiệt lòng mình về chuyện nhỏ hát ca mà cũng không dám thì mong gì nói tới những trái ngang tày trời khác!


4/


Tôi cũng nghĩ như mấy ông nọ, chưa từng có hiện tượng “văn hóa” nào quái đản bằng cái gọi là âm nhạc, ca khúc Việt Nam hiện nay. Phần nhiều những bài hát đó đích thị chẳng dây dưa gì tới thứ xưa nay nhân loại vẫn gọi là âm nhạc, còn lời ca thì thô lậu, ngô nghê thua hẳn lời nói bình thường và tầm thường nhất. Nhưng, lạ lùng thay, mấy người viết ra thứ ca nhạc đó vẫn được gọi nhạc sĩ một cách trang trọng; người la hét mấy bài đó vẫn là ca sĩ (có người nói lái kiểu Bùi Giáng, họ là “ca sĩ của đảng” tức “ca sảng của đ…”.


Đặc biệt hơn hết, họ giàu chưa từng thấy, nhất là đám ca hét, uốn éo trong ánh đèn màu chớp nháng. Đã đành, Việt Nam bây giờ là xứ sở của nghịch lý. Nghịch lý gần như tất cả mọi lãnh vực khác, tuy phải tìm nguyên nhân xa gần mệt mỏi, nhưng vẫn có thể hiểu ra. Riêng cái kiểu đờn ca đang thịnh hành là một sản phẩm tinh thần quái dị, không cách gì hiểu được vì sao nó phát triển và được đông đảo người trẻ hưởng ứng, do đó đem đến giàu có khiếp đảm cho bao nhiêu người làm thứ “nghệ thuật” kinh hoảng đó.


Nhận xét về lời ca, sau khi bỏ qua phần nhạc điệu, Nguyễn Hưng Quốc cho rằng nghe những ca khúc Việt Nam khiến ông phát bịnh vì lời ca dễ dãi, sáo mòn và cũ mèm. Đây có thể ông chỉ nói tới nhạc Việt Nam tiền chiến và miền Nam thời nội chiến. Ông trích mấy đoản ngữ như “dòng suối lững lờ”, “mối sầu vạn cổ”, “tim rạn vỡ”… để mà ớn. Theo tôi, nếu ông công bình hơn thì hẳn thông cảm các nhạc sĩ tiền chiến. Họ viết các ca khúc đó cùng thời với sự phát triển của thơ mới. Ca từ của họ mang hơi hám của thơ mới mà nay ai cũng biết không còn mới và những mỹ cảm lãng mạn kiểu đó nay đà lạc hậu. Thật ra, không hẳn tất cả chúng đều quá tệ. Lời trong nhạc Văn Cao cũng rực rỡ, sang cả:


Thiên Thai, ánh trăng xanh mơ


tan thành suối trần gian


Ái ân tiên thiên, em ngờ phút


mê cuồng có một lần.


Thiên Thai, chốn đây hoa xuân


chưa gặp bướm trần gian


Có một mùa đào dòng ngày tháng


chưa tàn qua một lần…


Sông Lô, sóng ngàn Việt bắc bãi dài


ngô lau, núi rừng âm u


Thu ru bến sóng vàng từng nhà


mờ biếc chìm một màu khói thu


Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn


màu nước sông Lô xưa…


Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về…


Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông


Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông…


Lê Thương cũng viết nên những lời ca lộng lẫy, đầy hình tượng:


Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,


Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng


Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về


Ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề


Nhìn chân trời xanh biếc bao la


Người mong chờ vẫn nhớ nơi xa


Đường chiều mịt mù cát bay tỏa bước ngựa phi


Đường trường nếp tàn y hùng cường


vẫn còn bay trong gió


Bóng từ xa sắp dần qua bóng chàng chập chùng


vượt núi qua khe


Với hành lương độ đường, chiếc hùng


gươm danh tướng


Dưới tà huy đếm nhịp đi vó ngựa phi


Dấn bước tang bồng giữa nơi núi rừng


Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san


Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan, tiễn đưa


bóng chàng…


Tứ thơ dồi dào, chữ nghĩa có vẻ sáo nhưng vô cùng thích nghi với nội dung chuyện kể. Thậm chí nếu không có mấy từ ngữ “dưới tà huy”, “nếp tàn y”, “bước tang bồng”, “hành lương độ đường”, “hùng gươm danh tướng”… thì… hết hay. Và tuyệt vời biết bao: “Đồi ai oán, rừng đa đoan tiễn đưa bóng chàng”.


Khi nhạc cần đến thơ thì hầu như phải thơ… dễ một chút. Hình như Phan Xuân Sinh có lần hỏi Phạm Duy sao không phổ nhạc thơ Tô Thùy Yên, ông bảo thơ đó “trí tuệ” quá, khó lắm! Không tưởng tượng được đem thơ vắt dòng đi phổ nhạc. Chẳng lẽ:


Nàng có ba người anh đi bộ


đội những đứa em nàng…


Còn thơ “hậu hiện đại” các thứ thì… vô phương, phải không? Muốn thoát ra khỏi không khí thơ mới cũng như các ca khúc ướt át miền Nam, Trịnh Công Sơn có vẻ là người nỗ lực cách tân lời ca nhất. Tuy vậy, nhờ giai điệu dịu dàng nâng đỡ ta lướt qua chớ chữ nghĩa của ông cũng nhiều chỗ… làm khó người nghe không ít. Ví như: Vết lăn; vết lăn trầm; hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền; như có lần chim muông…; hằn dấu chân người đi phiêu du từ đó… Rõ ràng tìm liên kết các ý với nhau… mệt nghỉ! Câu này nữa: “Em đi về cầu mưa ướt áo”. Phải nói lại, “em đi cầu về mưa ướt áo” thì mới đúng… ngữ pháp! (xin lỗi nhạc sĩ nơi vĩnh hằng, tôi đùa giỡn chút, đời buồn quá!).


Nhạc Phạm Duy có vẻ cần đến thơ lung lắm. Có người nói rằng nhiều thi sĩ nhờ Phạm Duy mà đời biết đến. Nếu quả thế thì mấy nhà thơ đó không phải thứ thiệt hoặc quần chúng đợi phổ nhạc rồi mới đọc tới thơ họ thì cũng chẳng biết phải nói gì. Ở đây quả thật không biết ông thần cậy cây đa hay cây đa cậy ông thần. Cung Trầm Tưởng có lần nói đúng, thơ, tự nó đã có nhạc nên phổ nhạc thêm cho nó chỉ là chuyện vẽ rắn thêm chân, (mặc dù Phạm Duy đã viết nhạc cho thơ của ông).


5/


Thật ra, nhạc cổ điển Tây Phương đâu cần tới thơ. Beethoven viết nhạc cho thơ Schiller trong Huynh Đệ Giao Hưởng Khúc là một chuyện hiếm. Nhân đây cũng nói luôn chuyện ngâm thơ. Tôi vô cùng ngại nghe ngâm thơ theo tiếng sáo tiếng đàn uốn éo dặt dìu (cũng như hồi còn đi dạy sợ xem giáo viên trường này trường kia múa, lạnh lạnh sống lưng, về bịnh). Những ngân nga kéo dài lời thơ ê a ư ử làm khổ đôi tai phải kỳ khu nhận ra từ để hiểu nghĩa. Mấy điệu ngâm ẻo lả đó phải hay ho gì cho cam mà làm khổ thiên hạ như tra tấn không bằng.


Thơ phải chăng chỉ nên đọc lên theo cảm xúc của mình mà sách vở gọi đọc diễn cảm. Xin khẳng định không phải đọc diễn cảm bằng cách nhấn giọng tùy tiện rất nhảm nhí của phần lớn giáo viên tiểu học và mẫu giáo dạy cho trẻ nhỏ hiện nay. Nghe các em thiếu nhi kể chuyện trên TV, tôi ngượng ngùng vì thấy rằng kiểu diễn cảm đó không dây dưa gì tới tiếng Việt. Chẳng hiểu ai bày đặt thứ ngữ điệu bằng cách nhấn mạnh từ, đụng đâu nhấn đó theo chủ quan người dạy, chướng tai kỳ quặc bao nhiêu năm rồi. Việt ngữ thật ra rất ít trường hợp nhấn từ, Cao Xuân Hạo không nói sai. Không hiểu do đâu mà xứ ta, chỗ nào cũng thấy sai. Tại người có quyền chỉ đạo ngồi không đúng ghế chăng? Tự nhiên nhớ tiếng Việt vui của Phan Khôi: Sai thì sửa, sai đâu sửa đó, sửa đâu sai đó, sai đó sửa đâu.


Phạm Duy còn nương vào dân ca để xây dựng sự nghiệp. Tôi không dám nói ca khúc ông không hay, không nghệ thuật, chỉ nói ông nương nhờ nhiều mấy điệu dân ca thôi. Hình như có lần Cung Tiến nói rằng tân nhạc là tân nhạc, pha trộn dân ca này nọ là không ổn hay không xứng đáng gì đó, tôi không chắc. Lúc đó Phạm Duy nổi tiếng quá, tôi nghĩ Cung Tiến hơi tị hiềm. Về già, tôi cho rằng Cung Tiến khách quan chứ không phải hiềm khích.


Nghe mấy bài hát Hương Xưa, Hoài Cảm… với giai điệu đẹp đẽ sang trọng bàng bạc air nhạc cổ điển, mêng mang một nỗi u hoài của ông thì nghĩ không phải ông nhiều chuyện. Ông chỉ khen Phạm Duy vài bài, hình như Bên Cầu Biên Giới, Thuyền Viễn Xứ… Theo tôi, Phạm Duy xuất sắc nhất khi viết lời Việt các ca khúc nổi tiếng phương Tây, trong đó có nhạc cổ điển. Dù sao thì tôi cũng, xin nói thật, ít thích thơ phổ nhạc. Muốn thơ thì đọc thơ, muốn nhạc thì nghe nhạc cổ điển.


Không ai hơn ai trong chuyện này, tất cả do thói quen và sở thích. Một phần cũng do may mắn có điều kiện tiếp xúc từ nhỏ thánh ca Tin Lành, air cổ điển thấm dần, riết thành quen rồi không thể thiếu. Cũng không thể phủ nhận sự liên tưởng và mối liên lạc thơ nhạc. Trong tập Thơ Ở Đâu Xa, Thanh Tâm Tuyền dặn con gái: “Để đọc bài thơ trên, cô Th nên nghe đoạn Presto trong Concerto Mùa Hạ của Vivaldi”. Ông tinh tế thật!


Tôi không tin phải thấu đáo nhạc lý thì mới nghe được nhạc cổ điển. Tôi cũng không tin lắm chuyện phân tích giai điệu, nhịp điệu tường minh thì mới hiểu và cảm được thứ âm nhạc đó. Như vậy, phải rành phân tích thơ thì mới hiểu và cảm được thơ sao? Thật ra, chỉ bọn nhà giáo mắc chứng nghề nghiệp lọ mọ phân tích thơ cho học trò tạm hiểu các thứ để thi cử nhảm nhí chứ thơ, chỉ nên làm thinh mà đọc một mình. Cũng như âm nhạc, chỉ nên lặng lẽ nghe mà cảm nhận.


Rõ ràng rằng cõi đời không mấy gì vui, người lương thiện miên viễn bị các thế lực tôn giáo, phong kiến ngày xưa đàn áp nên âm nhạc của họ buồn quá thể (ngày nay quan lại còn đàn áp man dã vạn lần hơn – nhưng cứ bảo dân chủ triệu lần hơn – mà âm nhạc thì chỉ có hát tôn vinh và tụng ca, hiểu sao cho thấu!). Theo cảm nhận chủ quan, ví dụ mấy bài concerto cho đàn violin hay nhất của Beethoven, Chopin, Tchaikovsky, Bruch, Brahms, Sibelius, Mendelssohn… hầu như tất cả phần nhiều đều diễn tả nỗi sầu nhân thế, khi thì u hoài man mác, lúc thê thiết não lòng. Nhất là mấy dòng đầu violin solo sau lúc dàn nhạc khai từ của mấy bản concerto đó, nghe mà muốn chết. Tiết điệu nhanh đòi hỏi kỹ thuật cao của các danh cầm như Paganini vẫn thấy buồn, mới lạ.


Tạ ơn các bậc thiên tài cho chúng sinh mọn hèn như tôi nghe những thanh âm tuyệt vời, nhận ra tâm hồn vĩ đại của những người văn minh thuở trước. Nhưng ngạc nhiên và đau lòng bao xiết kể khi vào YouTube xem thử thì thấy Leonid Kogan chơi violin Concerto của Mendelssohn được cả thảy 26,051 người nghe; Akiko Suwanai trình tấu violin concerto N.1 của Max Bruch chỉ được 184,836 trong khi Gangnam Style tới một tỷ bảy trăm triệu lượt người nghe!

Nhờ vậy đâm ra bớt buồn bực cho văn hóa, ca nhạc xứ mình. Có lẽ “cái thời nó vậy”!

(Tựa của Saigon Nhỏ)

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

LOL DELETE@

Post by LDN Sun May 22, 2022 2:48 pm

Ba thanh niên biến mất một cách bí ẩn trong bữa tiệc ngày hè, đồng nghiệp của thanh tra Kurt Wallander bị sát hại ngay trong nhà mình… Đây là tình tiết trong cuốn sách mới nhất, xuất bản tại Việt Nam trong series truyện về thanh tra Kurt Wallander của nhà văn Henning Mankell.

Cuốn sách vừa được NXB Hội Nhà Văn ấn hành, được dịch bởi dịch giả Cao Việt Dũng. Không giản đơn là một câu chuyện giải trí đơn thuần, Chậm một bước, với độ dày đáng nể, mở ra trước mắt người đọc thế giới nội tâm sâu thẳm của nhân vật cũng như những suy nghĩ về cuộc sống, về con người ẩn sau mỗi vụ án.


Cái chết của Svedberg – bạn đồng nghiệp của thanh tra Kurt, bên cạnh vai trò là chi tiết thắt nút của tác phẩm, còn xoáy vào lòng người đọc biết bao câu hỏi: Chúng ta đã thực sự hiểu và quan tâm tới những người sống quanh mình? Mối quan hệ đồng nghiệp hay chỉ là sự kết nối hờ hững trong công việc? Day dứt và trở đi trở lại, mỗi câu hỏi giống như một lời chất vấn về tình người, tình đời trong xã hội hiện đại và băng giá.

Series truyện về Kurt Wallander, trong đó có Chậm một bước mang tới cho người đọc một hình mẫu nhân vật hoàn toàn khác lạ so với những tác phẩm trinh thám thường gặp. Độc giả vốn đã quen với những anh chàng thám tử thông minh, quyến rũ và lạnh lùng. Nhưng ở đây, họ được gặp một nhân vật hoàn toàn khác, một người đàn ông không hạnh phúc trong hôn nhân, sống cô đơn trong căn hộ giản dị, luôn phải tìm cách chống chọi lại với những căn bệnh và nguy cơ dư thừa cân nặng.

Trong tác phẩm này, những mâu thuẫn trong cuộc sống riêng tư của người thanh tra đã được tô đậm: chứng bệnh tiểu đường, sự khủng hoảng khi người vợ cũ tái hôn với một người khác, nỗi cô đơn hiện rõ từng ngày… Những vụ án xảy ra và nỗ lực tìm kiếm kẻ phạm tội trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày của Kurt. Người đọc luôn nhận thấy, phá được vụ án khó khăn là một chiến công, nhưng họ không nhìn vào Kurt Wallander và đồng nghiệp của anh như những người anh hùng mà chia sẻ với anh cảm giác mãn nguyện, hạnh phúc, có chút gì đó thở phào khỏi gánh nặng khi kẻ phạm tội đã lọt lưới. Sự bình thường, thậm chí có phần đáng tội nghiệp trong cách miêu tả Kurt của Henning Mankell đã tạo nên một không khí riêng cho tác phẩm của ông, đó là vẻ đẹp giản dị của những con người đang bảo vệ sự yên bình cho xã hội. Họ không phải là những người hùng không thể nào với tới, mà đó là một ai đó ở ngay cạnh ta, một người mà ta chưa có dịp hiểu kỹ.

Điểm nổi bật làm nên sức hấp dẫn cho loạt truyện xoay quanh Kurt Wallander đó là tính chất ly kỳ, khốc liệt và bất ngờ đến giây phút cuối cùng của chuyên án. Mỗi tác phẩm thường được mở đầu bằng cái chết kinh hoàng (một cặp vợ chồng lão nông bị giết hại trong Faceless Killers, hai xác chết ôm ghì lấy nhau trên bờ biển Thụy Điển lạnh giá trong The Dogs of Riga, cha con vị luật sư trở thành nạn nhân của vụ án mạng kép trong The Man who Smiled, một vụ giết người man rợ theo nghi thức trung cổ với kẻ xấu số bị đâm xuyên qua những cọc tre trong The Fifth Women), sự mất tích đầy nghi vấn (ba thanh niên trong One Step Behind, người nhận dạng chim trong The Fifth Women), rồi một chuỗi các sự kiện bất thường liên tiếp xảy ra. Wallander, bằng sự mẫn cảm nghề nghiệp đặc biệt, tài năng, quả cảm và khao khát được thực thi công lý đã lần theo dấu vết, xâu chuỗi các mắt xích và khám phá ra nhiều tội ác có tổ chức đằng sau những cái chết ấy.

Không giống những nhà văn trinh thám khác, Henning Mankell ngay từ những dòng văn đầu tiên đã để cho kẻ giết người xuất hiện. Hắn vô danh, nhưng người đọc có thể hình dung ra hắn, cảm nhận được mùi chết chóc đáng sợ toả ra từ hắn. Độc giả không chỉ tự hỏi: thực chất hắn là ai? tại sao hắn có thể giết người không hề ghê tay? những thanh tra tìm ra hắn bằng cách nào? Và điều thú vị nhất của tác phẩm đó là cho dù độc giả thấy được sự tồn tại của kẻ tội phạm , nhưng hắn dường như một người vô hình trong toàn bộ câu chuyện.

Henning Mankell sinh ngày 3/2/1948 tại Stockholm, Thụy Điển. Ông là một kịch tác gia, một tiểu thuyết gia, một tác giả viết truyện cho thiếu nhi… nhưng mảng sáng tác làm nên tên tuổi của Henning Mankell đó là loạt truyện trinh thám xoay quanh nhân vật chính thanh tra Kurt Wallander. Không chỉ được xuất bản tại hơn 30 quốc gia, loạt truyện này hiện vẫn thuộc top bestseller của châu Âu với nhiều giải thưởng văn học trinh thám có uy tín. Bên cạnh đó loạt tác phẩm này còn được chuyển thể thành nhiều bộ phim nhựa cũng như phim truyền hình trên toàn thế giới.

Phú Duy

Tiểu thuyết nói về Kurt Wallender- 1 Thanh tra cảnh sát đã ngoài 40, hơi béo và mắc chứng bệnh tiểu đường.

Vào 1 ngày hạ chí ở Skane, thuộc miền Nam Thụy Điển, ba thanh niên cùng hẹn nhau trong 1 cánh rừng. Họ mặc trang phục của thế kỉ 18 và tham gia vào một lễ hội hoá trang. Nhưng họ không biết rằng lẫn sâu trong bóng tối có một kẻ lạ mặt đang theo dõi họ và hắn đã đặt dấu chấm hết cho cuộc vui này. Ba viên đạn vào đầu, ba xác chết!

CHẬM MỘT BƯỚC – HENNING MANKELL
Cùng lúc một mùa hè yên ắng đang diễn ra tại sở cảnh sát thành phố Ystad. Nhưng cảnh yên bình đó đã hoàn toàn tiêu tan, khi một trong những đồng nghiệp thân cận của Wallender bị giết chết một cách tàn nhẫn. Đầu mối duy nhất để lại: MỘT BỨC ẢNH CỦA MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ LẠ MẶT!!

Và kể từ giây phút ấy, Kurt Wallender cùng các đồng nghiệp của mình phải chạy đua với thời gian để tìm ra tung tích của kẻ xác nhân điên rồ. Một kẻ nắm trong tay mọi thông tin, một kẻ luôn lên kế hoạch một cách thận trọng và tỉ mỉ cho mọi hành động của mình, dường như không có kẽ hở và dấu vết. Một kẻ có ác cảm sâu đậm với những người HẠNH PHÚC và VUI VẺ!

Về phía cảnh sát, mọi người dường như luôn “chậm một bước” trước tên sát nhân. Họ lần mò tìm kiếm các manh mối trong vô vọng và mọi thứ luôn dậm chân tại chỗ. Đã có lúc Kurt Wallender, với áp lực từ dư luận, từ cấp trên, sự mệt mỏi từ căn bệnh tiểu đường mang trong người. Chính ông cũng trở nên tuyệt vọng và nghi ngờ chính khả năng cảnh sát của mình!

Nạn nhân từ 3,4 con số đã tăng dần lên 7,8 và sẽ không ngừng dừng lại. Nhưng cuối cùng với trực giác và suy luận thông minh của mình, Wallender đã-không-chậm-nữa.Ông đã cứu được nạn nhân thứ 9 với một viên đạt trượt qua má, và nạn nhân được định sẵn ấy không ai khác chính là ông. Ông đã vén ra bức màn bí mật về tên sát nhân cũng như những điều che giấu thầm kín của chính người cộng sự đã mất của mình!!

Đây là tác phẩm đầu tiên của Henning Mankell mà mình đọc. Nửa đầu tác phẩm do diễn biến chậm nên có thể gây cảm giác chán. Nhưng bắt đầu nửa sau, khi đã có những manh mối để lần ra tên sát thủ thì bạn sẽ không thể dứt quyển sách ra được. Thề luôn đấy!! Bằng chứng là 1/2 đầu mình phải đọc mấy tuần liền, nhưng 1/2 sau mình đã đọc một mạch từ 11h tối tới 2h sáng hôm sau!!

Ah, nếu bạn nào đô mạnh thích kiểu sát nhân mà lột da, máu me, biến thái hay thích phần truy bắt hung thủ kịch tính như phim thì tác phẩm này không có đâu nhé!! (Và đó cũng là điểm duy nhất mình không thích ở quyển này- Bao nhiêu manh mối tài tình để lần ra được hung thủ, nhưng cuối cùng việc tóm được hắn thì hơi đơn giản 1 chút)

Tác phẩm thiên nhiều về tâm lý nhân vật, cách suy luận, trực giác tài tình của Kurt Wallender! Nói túm lại đây là một tác phẩm hay- đáng để đọc!!

Cho 8,5/10 nhé!!

Hoang Tu Lai

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

View previous topic View next topic Back to top

- Similar topics

Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum